Trả lời : Năm 2013, tôi và chồng kết hôn. Đến đầu 2015, do hoàn cảnh khó khắn, chồng tôi bị tai nạn nên...
Nội dung câu hỏi
Năm 2013, tôi và chồng kết hôn. Đến đầu 2015, do hoàn cảnh khó khắn, chồng tôi bị tai nạn nên phải cắt một chân nên tôi đi xuất khẩu lao động và để con cho chồng ở nhà chăm sóc. Ra nước ngoài tôi làm việc chăm chỉ để gửi tiền về cho gia đình. Năm 2017, tôi có gửi tiền về để hai vợ chồng mua một mảnh đất. Chồng tôi đi mua và làm các thủ tục nên trong hợp đồng mua đất và giấy tờ chứng nhận chỉ ghi tên chồng tôi. Năm 2018, tôi về hẳn Việt Nam định bán mảnh đất để lấy vốn làm ăn thì mới phát hiện chồng tôi đang thực hiện thủ tục tặng cho mảnh đất đó cho mẹ chồng tôi. Tôi không hề hay biết chuyện này, chồng tôi có nói đây là tài sản đứng tên anh ấy nên anh ấy có quyền. Vậy cho tôi hỏi: mảnh đất này là tài sản của hai vợ chồng hay của riêng chồng tôi?
Nguyễn Dương Phương (30/05/2018 13:55)
Trả lời
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay quy định rất rõ về vấn đề này tại các Điều 26, 33, 34. Cụ thể:
Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung như sau:
“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Theo quy định tại Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình thì trường hợp chồng chị tặng cho mảnh đất trên phải được sự đồng ý của chị bằng văn bản ủy quyền cho chồng chị được đại diện chị thực hiện giao dịch. Nếu không được sự đồng ý của chị mà chồng chị thực hiện giao dịch tặng cho đất thì giao dịch này vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ (Tức là trong trường hợp người thứ ba không biết hoặc không thể biết rằng mình tham gia vào giao dịch dân sự với người không có quyền định đoạt tài sản, hoặc đối tượng của giao dịch liên quan liên quan đến giao dịch trước đó. Trường hợp này thường xảy ra đối với với những tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như: đồng hồ, dây chuyền, điện thoại di động…) Đối với những trường hợp tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu thì đa phần người thứ ba buộc phải biết tài sản có minh bạch hay không. Lúc này, người thứ ba tham gia giao dịch là không ngay tình và phải trả lại tài sản.
Để xác định tài sản chung thì cần căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
“1. Tài sản chung của vợ, chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, …...
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
…
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.”
Do đó, căn cứ vào các quy định trên thì mảnh đất đó là tài sản chung của hai vợ chồng. Nếu chồng chị nói đó là tài sản riêng thì chồng chị phải chứng minh đó là tài sản riêng của chồng chị.
Trả lời : Chồng tôi vừa mất cách đây 2 tháng do tai nạn giao thông, không có di chúc. Sau khi lo liệu mọi...
Nội dung câu hỏi
Chồng tôi vừa mất cách đây 2 tháng do tai nạn giao thông, không có di chúc. Sau khi lo liệu mọi việc thì có vài người đến đưa giấy nợ có chữ ký của chồng tôi bảo là chồng tôi nợ họ, số tiền chồng tôi vay chỉ để ăn chơi, nhậu nhẹt cá nhân nhưng chưa trả hết, bây giờ tôi phải thay anh ấy tôi trả nợ cho họ. Tôi không hề biết gì về việc này. Cho tôi hỏi trong trường hợp này tôi có phải trả nợ thay chồng tôi không?
Đặng Phong (30/05/2018 13:54)
Trả lời
Theo như những gì bạn nói thì bạn không biết chồng bạn vay tiền. Và chồng bạn đã sử dụng số tiền vay để ăn chơi, nhậu nhẹt cá nhân, không phải chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Nên theo khoản 3 Điều 45 Luật HN&GĐ, việc trả nợ là nghĩa vụ riêng về tài sản của chồng bạn, bạn không có trách nhiệm gì với số tiền nợ đó.
Tuy nhiên, hiện nay, chồng bạn đã mất nên bạn cần lưu ý như sau:
Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự về người thừa kế theo pháp luật thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy, bạn thuộc hàng thừa kế thứ nhất của chồng mình, do đó, bạn được ưu tiên hưởng thừa kế cùng những người trong hàng thừa kế thứ nhất khi chia di sản thừa kế của chồng bạn.
Căn cứ vào quy định của Điều 614, khoản 1, khoản 3 Điều 615 Bộ luật dân sự thì: Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi tài sản mình đã nhận trong khối di sản của người chết để lại. Điều này có nghĩa là, bạn là người thừa kế của chồng bạn. Khi bạn nhận phần di sản mà chồng bạn để lại cũng là lúc bạn có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ tài sản của chồng bạn. Trong trường hợp này, bạn phải dùng tài sản bạn hưởng thừa kế để thực hiện nghĩa vụ trả nợ số tiền mà chồng bạn đã vay.
Ngoài ra, bạn cũng có quyền từ chối nhận di sản và việc từ chối không vì mục đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của bạn với người khác (không bao gồm việc trả nợ cho chồng bạn). Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản. Nếu bạn từ chối nhận di sản, đồng nghĩa với việc bạn không được nhận di sản từ chồng và cũng không phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ số tiền chồng bạn vay vì đây là nghĩa vụ riêng của chồng bạn (như đã nói ở trên).
Trả lời : Vợ tôi thế chấp quyền sử dụng đất đứng tên hai vợ chồng để vay tiền bên ngoài, giấy vay tiền chỉ...
Nội dung câu hỏi
Vợ tôi thế chấp quyền sử dụng đất đứng tên hai vợ chồng để vay tiền bên ngoài, giấy vay tiền chỉ có chữ ký của vợ tôi. Tôi không hề biết việc này, cũng không biết vợ tôi vay tiền chi tiêu việc gì vì hàng tháng tôi vẫn đưa tiền sinh hoạt cho vợ tôi. Đến thời điểm hiện tại, khi hai vợ chồng tôi quyết định ly hôn thì vợ tôi mới nói sự việc này và đề nghị Tòa án giải quyết đây là nợ chung của hai vợ chồng. Vậy tôi muốn hỏi là liệu tôi có phải trả nợ cùng cô ấy không?
Trần Đình Dũng (30/05/2018 13:50)
Trả lời
Căn cứ vào quy định tại Điều 60 Luật HN&GĐ, trường này giữa bạn và vợ đang có tranh chấp về nghĩa vụ trả nợ đối với bên thứ ba. Do đó, phải áp dụng quy định tại các Điều 27, 37 và 45 Luật HN&GĐ để giải quyết. Cụ thể như sau:
Theo các quy định trên, vợ chồng bạn sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới trong các trường hợp sau:
- Giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
- Thực hiện các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như: (1) Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; (2) Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; (3) Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; (4) Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; (5) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật Dân sự thì cha mẹ phải bồi thường; (6) Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Do bạn không biết vợ bạn đi vay tiền và sử dụng số tiền vay để làm gì, trường hợp vợ bạn vay tiền cũng không phải thuộc trường hợp đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của Điều 24, 25 và 26 Luật HN&GĐ nên sẽ có 2 trường hợp xảy ra:
- Trường hợp 1: Nếu vợ bạn chứng minh được số tiền vay đã chi tiêu vào các công việc gia đình như chi phí đóng học của con, trả các hóa đơn điện nước, mua sắm vật dụng gia đình,… thì số tiền vay này là khoản nợ chung, hai vợ chồng bạn có nghĩa vụ liên đới trả nợ.
- Trường hợp 2: Nếu vợ bạn không chứng minh số tiền vay đã chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình thì việc phải trả nợ là nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên là vợ bạn xác lập thực hiện không vì nhu cầu gia đình. Nên đây là khoản nợ riêng của vợ bạn, vợ bạn sẽ có trách nhiệm trả nợ.
Như vậy, để xác định trách nhiệm trả nợ của bạn là phải có căn cứ chứng minh vợ bạn đã sử dụng số tiền vay để làm gì. Từ đó có thể xác định bạn có nghĩa vụ liên đới trả nợ hay không.
Trả lời : Tôi và chồng kết hôn từ năm 2009 và có 2 cháu. Năm nay, cháu lớn 9 tuổi, cháu bé 2 tuổi. Do nhiều...
Nội dung câu hỏi
Tôi và chồng kết hôn từ năm 2009 và có 2 cháu. Năm nay, cháu lớn 9 tuổi, cháu bé 2 tuổi. Do nhiều khúc mắc không thể giải quyết, tình cảm hai vợ chồng không còn nên tôi muốn ly hôn. Tôi làm may tại nhà còn chồng thì làm lái xe nên thường xuyên vắng nhà, gia đình chồng lại ở xa. Cho tôi hỏi, nếu ly hôn thì tôi có được quyền nuôi cả hai cháu không?
Trần Phương Hà (30/05/2018 13:47)
Trả lời
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con sau khi ly hôn thì:
“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của các con”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì khi ly hôn, quyền nuôi con sẽ được ưu tiên thực hiện theo thỏa thuận của cha mẹ. Trường hợp cha mẹ không thể thỏa thuận được thì sẽ do Tòa án quyết định người trực tiếp nuôi con.
Trường hợp quyền nuôi con do Tòa án chỉ định, con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Như trường hợp của bạn, cháu thứ hai năm nay 2 tuổi. Nếu ly hôn thì Tòa án sẽ trao quyền nuôi cháu cho mẹ, trừ trường hợp ngưởi mẹ không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Còn đối với cháu lớn, năm nay cháu đã 9 tuổi. Theo quy định trên thì khi chỉ định người nuôi con, Tòa án sẽ xem cét đến nguyện vọng của cháu là muốn ở với bố hay ở với mẹ.
Ngoài việc tuân theo các quy định trên thì Tòa án cũng phải xem xét đến các yếu tố khác để đưa ra quyết định:
- Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập mà mỗi bên dành cho con. Yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha, mẹ;
- Các yếu tố về tinh thần bao gồm: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi, giải trí, trình độ học vấn của cha, mẹ.
Như vậy, nếu muốn dành quyền nuôi các con, bạn phải chứng minh cho Tòa án thấy khả năng và điều kiện tốt nhất mà bạn sẽ dành cho các con như: tình hình sức khỏe, điều kiện về chỗ ở, việc làm, thu nhập hàng tháng, điều kiện chăm sóc, giáo dục các con
Trả lời : Hai vợ chồng tôi đã ly hôn được 3 năm. Tôi được quyền nuôi dưỡng con chung (cháu đã l2 tuổi) và...
Nội dung câu hỏi
Hai vợ chồng tôi đã ly hôn được 3 năm. Tôi được quyền nuôi dưỡng con chung (cháu đã l2 tuổi) và chồng cũ của tôi có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, anh ta chưa hề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và cũng không có trách nhiệm gì với con. Tôi cũng không muốn khởi kiện ra tòa vì mất nhiều thời gian và công sức. Hiện nay, anh ta đang bỏ trốn vì vỡ nợ. Bây giờ tôi muốn đổi họ của con sang họ của tôi thì có được pháp luật cho phép hay không?
Dương Thi Hường (30/05/2018 13:46)
Trả lời
Tại khoản 1 Điều 27 Bộ luật dân sự 2015 quy định Quyền thay đổi họ như sau:
“1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong trường hợp sau đây:
a) Thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại”
Mặt khác, tại Khoản 1 Điều 7 Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch 2014 quy định:
“Việc thay đổi họ, chữ đệm, tên cho người dưới 18 tuổi theo quy định tại Khoản 1 Điều 26 của Luật Hộ tịch phải có sự đồng ý của cha, mẹ người đó và được thể hiện rõ trong Tờ khai; đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên thì còn phải có sự đồng ý của người đó”.
Như vậy, căn cứ các quy định trên thì cá nhân hoàn toàn có quyền thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ và ngược lại. Tuy nhiên, việc thay đổi họ cho con dưới 18 tuổi phải có sự đồng ý của cả cha, mẹ và được thể hiện rõ trong Tờ khai. Do đó, trong trường hợp của bạn, khi bạn muốn thay đổi họ cho con, bạn cần phải được sự đồng ý bằng văn bản của chồng cũ.
Bạn cần đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của con bạn có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi.
Thủ tục đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch được quy định tại Điều 28 Luật Hộ tịch như sau:
“1. Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc thay đổi, cải chính hộ tịch là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.
Trường hợp thay đổi, cải chính hộ tịch liên quan đến Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi, cải chính hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.
Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 03 ngày làm việc.
3. Trường hợp đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch không phải tại nơi đăng ký hộ tịch trước đây thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Ủy ban nhân dân nơi đăng ký hộ tịch trước đây để ghi vào Sổ hộ tịch.
Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch trước đây là Cơ quan đại diện thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch”.
Trả lời : Hai vợ chồng tôi ly hôn từ năm 2015. Con chung được giao cho chồng tôi nuôi dưỡng. Đầu năm nay,...
Nội dung câu hỏi
Hai vợ chồng tôi ly hôn từ năm 2015. Con chung được giao cho chồng tôi nuôi dưỡng. Đầu năm nay, chồng tôi không may bị tai nạn qua đời. Cháu được ông bà nội tiếp tục nuôi dưỡng. Tôi vẫn thường đến thăm nom cháu nhưng bị ông bà nội lấy cớ và không cho hai mẹ con gặp nhau. Năm nay cháu mới 10 tuổi, tôi phải làm thế nào để giành quyền nuôi cháu từ ông bà nội?
Nguyễn Phương Dung (30/05/2018 13:43)
Trả lời
Theo quy định tại khoản 1 Điều 73 Luật Hôn nhân và gia đình thì “Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật”.
Mặt khác khoản 1 Điều 136 Bộ luật dân sự cũng quy định: Cha, mẹ là đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên.
Tại Điều 52 Bộ luật dân sự quy định Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên như sau:
“Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật này được xác định theo thứ tự sau đây:
1. Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
2. Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.
3. Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ”.
Căn cứ theo quy định trên thì bạn là mẹ của cháu nên bạn là người đại diện theo pháp luật của con đồng thời là người giám hộ đương nhiên của cháu. Bạn hoàn toàn có quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và không ai được phép cản trở quyền của bạn, trừ trường hợp bạn bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Trường hợp bạn nêu là người trực tiếp nuôi dưỡng con là chồng cũ của bạn đã qua đời thì bạn cần giải thích để ông bà nội hiểu rằng quyền nuôi con là của bố mẹ người chưa thành niên, khi chồng chết thì bạn có quyền nuôi con. Nếu bố mẹ chồng vẫn ngăn cản và tranh chấp quyền nuôi con thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết.
Trả lời : Ông Nguyễn Hữu Minh hỏi: Theo Luật Xây dựng số 16/2003/QH11, dự án đầu tư xây dựng công trình đã...
Nội dung câu hỏi
Ông Nguyễn Hữu Minh hỏi: Theo Luật Xây dựng số 16/2003/QH11, dự án đầu tư xây dựng công trình đã được phê duyệt được điều chỉnh khi có một trong các trường hợp: Do thiên tai, địch họa hoặc các yếu tố bất khả kháng… Nghị định số 12/2009/NĐ-CP quy định, trường hợp xét thấy tổng tiến độ của dự án bị kéo dài thì chủ đầu tư phải báo cáo người quyết định đầu tư để đưa ra quyết định việc điều chỉnh tổng tiến độ của dự án. Căn cứ các quy định nêu trên, chủ đầu tư đã có công văn gửi cơ quan có thẩm quyền về việc gia hạn thời gian thực hiện dự án do nguyên nhân khách quan chậm bàn giao mặt bằng thi công. Cơ quan quyết định đầu tư cũng đã có công văn chấp thuận gia hạn thời gian thực hiện dự án; chấp thuận điều chỉnh thời gian thực hiện dự án. Như vậy, cho tôi hỏi, chủ đầu tư có phải tiến hành trình phê duyệt điều chỉnh thời gian thực hiện dự án trong quyết định đầu tư dự án đã được phê duyệt trước đây không, hay chỉ cần cơ quan quyết định đầu tư chấp thuận điều chỉnh thời gian thực hiện dự án bằng công văn chấp thuận là được?
Ông Nguyễn Hữu Minh (11/10/2017 10:08) - Thái Nguyên
Trả lời
Các quy định về pháp luật xây dựng trong câu hỏi do ông Minh viện dẫn (Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 và Nghị định số 12/2009/NĐ-CP) hiện đã không còn hiệu lực hoặc đã bị thay thế, do đó đề nghị ông nghiên cứu Điều 61 Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 và Điều 14 của Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng để nắm rõ các quy định về điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng.
Trả lời : Tôi xin hỏi, dự án trên địa bàn huyện sử dụng vốn ngân sách, các gói thầu cần thực hiện trước khi...
Nội dung câu hỏi
Tôi xin hỏi, dự án trên địa bàn huyện sử dụng vốn ngân sách, các gói thầu cần thực hiện trước khi duyệt dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật, thẩm tra thì thẩm quyền duyệt dự toán gói thầu, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu là chủ đầu tư hay người quyết định đầu tư?
Anh Nguyễn Văn Hoàng (11/10/2017 09:52) - Thái Nguyên
Trả lời
Thẩm quyền thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán xây dựng công trình thuộc dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng.
Đối với dự toán các gói thầu xây dựng, chủ đầu tư tổ chức xác định, cập nhật dự toán gói thầu xây dựng, thực hiện thẩm định, phê duyệt thay thế giá gói thầu xây dựng ghi trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã phê duyệt.
Trường hợp vượt dự toán gói thầu đã được phê duyệt thì trình người quyết định đầu tư phê duyệt. Kế hoạch lựa chọn nhà thầu do người quyết định đầu tư phê duyệt.
Trả lời : Cá nhân từ tháng 6 năm 2016 có văn bản tạm hoãn hợp đồng lao động nhưng các tháng 7 đến tháng 12...
Nội dung câu hỏi
Cá nhân từ tháng 6 năm 2016 có văn bản tạm hoãn hợp đồng lao động nhưng các tháng 7 đến tháng 12 năm 2016 vẫn có các khoản thưởng, tại thời điểm quyết toán thuế cá nhân không có ủy quyền Quyết toán thì tổ chức chi trả có tính giảm trừ và quyết toán thuế TNCN cho cá nhận bị tạm hoãn hợp đồng lao động này không? Cán bộ đã chuyển công tác sang chi nhánh khác, trong năm có các khoản thưởng cho cán bộ trong thời gian công tác. Vậy khoản thưởng này có tính chất khấu trừ thuế 10% hay không?
Bà Dương Thị Mai Thương (11/10/2017 09:47) - Thái Nguyên
Trả lời
Căn cứ điểm e Khoản 2, Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2015 quy định: Các khoản thu nhập chịu thuế
“e) Các khoản tiền thưởng bằng tiền hoặc không bằng tiền dưới mọi hình thức…..”
Tại điểm a Khoản 2 Điều 8 Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 quy định:
“Điều 8. Xác định thu nhập chịu thuế từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công.
2. Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công
a.) Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng số tiền lương, tiền công, tiền thù lao và các khoản thu nhập khác có tính chất tiền lương, tiền công mà người nộp thuế nhận được trong kỳ tính thuế theo hướng dẫn tại khoản 2, điều 2 Thông tư này.”
Tại tiết i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của BTC quy định:
“Điều 25. Khấu trừ thuế và chứng từ khấu trừ thuế
1. Khấu trừ thuế
i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác:
Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác ...hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.”
Tại điểm đ Khoản 2 Điều 26 Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định:
"đ)Tổ chức, cá nhân trả thu nhập chỉ thực hiện quyết toán thuế thay cho cá nhân đối với phần thu nhập từ tiền lương, tiền công mà cá nhân nhận được từ tổ chức, cá nhân trả thu nhập".
Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp cá nhân đã có văn bản tạm hoãn hợp đồng lao động nhưng vẫn có khoản tiền thưởng thì đơn vị thực hiện khấu trừ thuế theo mức 10% và thực hiện quyết toán tại biểu 05-2/BK-TNCN.
Trường hợp các cá nhân đã chuyển công tác sang chi nhánh khác thì khoản tiền thưởng chi trả cho cá nhân phải khấu trừ 10%
Trả lời : Bà Nguyễn Thị Hiền năm nay 45 tuổi, đóng BHXH, BHYT được 17 năm 9 tháng. Năm 2017, bà muốn nghỉ...
Nội dung câu hỏi
Bà Nguyễn Thị Hiền năm nay 45 tuổi, đóng BHXH, BHYT được 17 năm 9 tháng. Năm 2017, bà muốn nghỉ hưu trước tuổi, vậy bà Hiền có đủ điều kiện được hưởng lương hưu không và tỷ lệ hưởng thế nào?
Bà Nguyễn Thị Hiền (11/10/2017 09:13) - Sông Công - Thái Nguyên
Trả lời
Tại thời điểm năm 2017, bà Hiền đủ 45 tuổi, tham gia BHXH được 17 năm 9 tháng nên bà chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu.
Căn cứ theo quy định tại Điều 54 Luật BXHH số 58/2014/QH13 về điều kiện hưởng lương hưu: Người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi;
- Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên;
- Người lao động từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm việc khai thác than trong hầm lò;
- Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
Căn cứ theo quy định tại Điều 55 Luật BHXH số 58/2014/QH13 về điều kiện hưởng lương hưu suy giảm khả năng lao động: Người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điều 54 nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Từ ngày 1/1/2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động. Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành.
Như vậy, bà Hiền thuộc một trong các trường hợp trên thì bà đủ điều kiện hưởng lương hưu.